6.6.14

Kéo cắt tóc

Việc lựa chọn kéo cắt tóc phù hợp với bạn có thể là một quyết định phức tạp và khó khăn với hàng ngàn loại kéo khác nhau.
Để sự lựa chọn này dễ dàng hơn và ít phức tạp hơn, có 3 yếu tố quyết định khi lựa chọn kéo:
   - Chọn loại lưỡi kéo phù hợp với nhu cầu, việc này bao gồm xem xét chất liệu và loại cạnh
   - Chọn loại tay cầm của kéo đem lại cho bạn sự thoải mái nhất trong kiểu cắt ưa thích của bạn
   - Chọn chiều dài hoặc loại tạo kết cấu và đánh giá các đặc tính khác.
I. Cấu tạo của kéo cắt tóc
cau tao keo cat toc 

II. Các loại lưỡi kéo
   - Loại lưỡi kéo sẽ ảnh hưởng trực tiếp lên hiệu quả và khả năng cắt của kéo.
   - Nó là yếu tố quan trọng nhất cần xem xét khi lựa chọn kéo.
1- Lưỡi vát cạnh
   - Đây là loại lâu đời và phổ biến nhất ngày nay. Được làm tự hỗn hợp kim loại nhẹ.
   - Loại lưỡi này có thể cắt tốt nhưng đòi hỏi nhiều lực nhấn hơn.
   - Loại lưỡi này ít mắc tiền hơn loại lưỡi cạnh lồi. Hạn chế chính của loại lưỡi này là không thể cắt trượt.
keo-luoi-vat-canh
2- Lưỡi vát cạnh có răng cưa hay gợn sóng
   - Loại lưỡi này có các rãnh nhỏ khắc vào bề mặt cạnh. Mục đích là để giữ tóc khỏi trượt khỏi cạnh.
   - Loại này thường rẽ tiền, thích hợp để cắt các đường cắt thẳng, cắt chậm các chi tiết hoặc cắt trên tóc khô.
   - Loại lưỡi này cần nhiều lực để cắt và có thể gây hại đến ngọn tóc. Loại này không thể dùng để cắt trượt vì tóc kẹt trên lưỡi kéo.
keo-luoi-rang-cua
3- Lưỡi cạnh lồi
   - Loại lưỡi này cực kỳ mạnh mẽ, cắt rất bén và nhẹ nhàng. Lưỡi kéo làm từ kim loại không rĩ có trọng lượng nặng hơn loại vát cạnh.
   - Vì mặt ngoài của lưỡi được làm lồi ra, loại lưỡi này đặc biệt thích hợp cho kỹ thuật cắt trượt và các kỹ thuật cắt nâng cao khác.
   - Cạnh bén hơn làm nó cắt trơn tru hơn và giữ độ bén lâu hơn.
   - Do các đặc tính này nên loại lưỡi kéo này khó chế tạo hơn, có giá đắt hơn và phải được mài theo cách riêng.
keo-luoi-canh-loi
   - Gần như tất cả các loại kéo chất lượng cao có mặt trong của lưỡi lõm.
   - Nói cách khác phía giữa lưới kéo thấp hơn và ra ngoài cạnh lưỡi nhô cao hơn.
   - Điều này để các cạnh lưỡi tiếp xúc nhau nhưng cạnh lưỡi không bị ép kéo vào nhau bên trong lưỡi khi kéo đóng lại.
III. Chất liệu chế tạo kéo
   - Hai phương pháp phổ biến để chế tạo kéo là rèn và đúc. Phương pháp rèn làm kim loại nén chặt hơn và cứng hơn,
giữ được độ bén lâu hơn. Phương pháp đúc sau khi làm nguội khuôn, các phân tử bị nở ra dẫn đến mất độ bén và trở nền giòn hơn.
   - Phương pháp đúc dễ thực hiện hơn nên giá thành rẽ hơn. Khó có thể phân biệt bằng mắt kéo được chế tạo theo phương pháp nào.
   - Phần lớn kéo chế tạo ở Đài Loan và Trung Quốc là theo phương pháp đúc.
+ Hợp kim
   - Đa số kéo được chế tạo từ một hợp kim nào đó.
   - Hợp kim được tạo từ việc kết hợp hai hay nhiều nguyên tố kim loại để tạo độ chắc chống lại sự ăn mòn.
   - Tuổi thọ, đồ bền, độ bén của kéo được gia tăng tùy thuộc vào kim loại nền trong hợp kim.
   - Niken (kền) được thêm vào trong hầu hết các hợp kim, để tăng độ sáng bóng và chống lại sự ăn mòn.
   - Một số người có thể bị dị ứng với hợp kim có niken.
+ Hợp kim thép không gỉ
   - Đây là hợp kim phổ biến nhất trong chế tạo kéo. Nó dễ dàng bảo quản và giữ cạnh cắt tốt.
   - Hai loại thép không gỉ phổ biến là 420A và 440C. 440C giữ cạnh bén tốt hơn vì chứa lượng cacbon cao hơn.
   - Thép không gỉ tốt nhất là của Nhật và Đức.
+ Hợp kim Coban
   - Là vật liệu phổ biến khác trong sản xuất kéo. Coban chống gỉ và ăn mòn hóa học tuyệt vời.
   - Vấn đề là nó dễ mẻ và lưỡi kéo không thể điều chỉnh được sau nhiều lần mài.
+ Hợp kim Molypdden
   - Đây là một vật liệu lý tưởng như một bước nhảy từ hợp kim thép không gỉ hoặc Coban.
   - Nó có thể được làm cứng hơn mà không bị giòn và Molypdden rất mềm dẻo.
   - Có thể cạnh bén hơn so với hợp kim không gỉ hoặc coban.
+Hợp kim Molypdden Coban
   - Hợp kim này thêm sự dẻo dai, cứng và bền, giữ được chống ăn mòn mà không dễ vỡ.
+ Thép nung và thép cacbua
   - Một vật liệu trong chế tạo kéo đắt tiền. Thép nung có độ cứng rất cao nhưng giòn và khó mài.
   - Thép cacbua có thể giữ độ bén cực tốt. Vì khó chế tạo kéo từ những vật liệu này nên giá của chúng khá cao.
IV. Tay cầm của kéo
   Khi lựa chọn tay cầm của kéo, có 2 điều cần xem xét:
   - Vị trí tổng thể của bàn tay
   - Phân cách ngón cái
   Điều quan trọng là tìm được sự kết hợp của hai yếu tố trên sẽ đem lại cho bạn sự thoải mái nhất, dễ sử dụng nhất và hiệu quả nhất.
1- Vị trí tay cầm

+ Tay cầm đối xứng
tay cam doi xungtay cam doi xung
opposinggrip
   - Loại tay cầm này lâu đời nhất, đối xứng nhau qua đinh ốc ở giữa.
   - Loại kéo này ép người cắt phải nâng cao khuỷu tay tới đường ngang trong nhiều kỹ thuật cắt.
   - Chúng phù hợp với người cắt bằng ngón cái và ngón giữa.
   - Tuy nhiên chúng là kiểu gây Hội chứng RSI ( Repetitive Stain Injury - chấn thương do căng thẳng lặp đi lặp lại)
     và Hội chứng ống cổ tay ( CTS - Carpal Tunnel Syndrome - bệnh lý gây ra do dây thần kinh giữa của lòng bàn tay bị chèn ép.)
+Tay cầm dịch chuyển
taycamdichchuyentay cam dich chuyen
offsetgrip
   - Loại này có tay cầm ngón cái ngắn hơn tay cầm của ngón kia. Chúng cố làm cho thoải mái hơn và giữ sức khỏe cho người cắt.
   - Tay cầm ngón cái ngắn hơn giúp ít lực nhấn lên gân ngón cái và do đó có thể giảm chứng CTS.
+Tay cầm nghển
tay cam nghentay cam nghen
cranegrip
Cũng giống tay cầm dịch chuyển nhưng có một khác biệt. Nếu cầm lưỡi kéo theo chiều ngang, tay cầm sẽ hướng xuống dưới thay vì cân giữa lưỡi kéo. Điều này là nhân tố tối ưu vì nó làm giảm bớt và ngăn lực nhấn lên ngón cái, cánh tay và vai bằng việc cho phép người cắt với khuỷu tay ở vị trí thấp hơn. Nó giảm thiểu chứng RSI.
+ Tay cầm nghển mở rộng hay tay cầm trung lập
tay cam nghentay cam nghen
   - Tay cầm ngón cái ngắn hơn nhiều và vòng ngón cái dịch chuyển xa hơn vòng ngón tay kia.
   - Có thể vòng ngón cái ở vị trí trung lập, qua khỏi vị trí ngón trỏ như một tay đỡ.
   - Giảm tối thiểu lực nhấn lên bàn tay. Thiết kế làm giảm chứng RSI.
2- Tay cầm của ngón cái
thumb handle

+ Ngón cái phẳng chuẩn
flatthumb standardgrip
   - Loại phổ thông lâu đời. Nó có thể dùng cho tay phải lẫn tay trái. Không tạo lợi ích tối ưu nào.
+ Tay cầm cắt lõm
cutaway cutaway+thumb
   -Có một vết cắt lõm trên vòng ngón tay. Nó cho phép cạnh ngón cái được dùng để mở kéo,
    cho một tùy chọn hạ thấp khuỷu tay khi cắt.
+ Tay cầm theo khung xương
anatomic anatomicgrip
   - Cho phép tạo chuyển động tự do hơn, cũng giúp hạ thấp khuỷu tay khi cắt.
+ Tay cầm xoay
rotating rotatingthumb
   - Là loại cải tiến. Khi sử dụng đúng, nó cho phép toàn bộ thao tác cắt được thực hiện với khuỷu tay hạ thấp.
   - Nó giữ bàn tay được thư giãn. Giúp giảm thiểu chứng RSI. Được khuyến cáo sử dụng bởi bác sĩ.
3. Cung trượt polime ( Polimer Glide )
teflonride
Điểm mài mòn chính của kéo là vùng trượt ở trục. Cung trượt polime cách ly sự ma sát kim loại giữa 2 lưỡi kéo, tạo chuyển động êm nhất có thể.
V. Hệ thống căng kéo
1- Vít điều chỉnh
vit dieu chinh
   - Đây là hệ thống lâu đời nhất. Một số có thể được chỉnh bằng đồng xu, số khác đòi hỏi chỉnh bằng tuốc-nơ-vít.

2- Núm điều chỉnh trực tiếp
num dieu chinh truc tiep
Điều chỉnh dễ dàng bằng tay

3- Nhíp lá
leafspring
   - Thêm một nhíp lá bên dưới núm điều chỉnh, trải độ căng theo chiều dọc bên trong chốt của kéo.
   - Hệ thống này có thể kéo dài tuổi thọ lưỡi kéo bằng việc làm ổn định lưỡi dẫn đến phân phối sóng mang một cách đồng đều.

4- Nhíp lá vòng bi
ballberring
   - Có thêm vòng bi giúp tăng cường sự ổn định lưỡi kéo.
   - Vòng bi nằm khít ở tâm kéo và các lưỡi kéo xoay trên vòng bi thay vì vòng đệm nylon.

5- Vòng bi phẳng
flatline-tensen

Vòng bi có thêm vít phẳng làm nhiệm vụ chốt hãm. Nó giữ độ căng tốt và ổn định lưỡi kéo.
6. Nhíp lá 2 chiều
Một vài kéo có hệ thống căng kéo có thể hoán đổi được, dành cho những người sử dụng tay trái.
Nút điều chỉnh ở vị trí dành cho người sử dụng tay phải thường không thuận lợi cho người dùng tay trái ở một vài thao tác cắt,
vì vậy nó được thiết kế để có thể đổi ngược vị trí. Loại này lý tưởng cho người dùng tay trái sử dụng kéo thiết kế cho tay phải.
Kiểm tra độ căng : cầm kéo bằng tay trái, để đứng kéo, mở rộng kéo hết cỡ và cho một lưỡi rơi tự do về phía đóng hoàn toàn. 
Khi độ chặt đúng nó sẽ dừng lại nhẹ nhàng ở vị trí 10 giờ.
adjust tension
VI. Chiều dài kéo
Nhiều thợ cắt tóc lựa chọn chiều dài kéo theo kích thước bàn tay, nhưng thực tế cần phải lựa chọn theo các kỹ thuật cắt khác nhau
phù hợp với công việc, ví dụ kéo ngắn thích hợp hơn cho việc cắt các chi tiết chính xác, cắt tóc nhỏ sợi trong khi kéo dài hơn thích hợp
việc cắt mạnh mẽ, cắt tóc to sợi...
   - Chiều dài kéo tính từ mũi kéo đến phần xỏ ngón tay xa nhất. Không tính phần giữ ngón út.
   - Kéo cắt thường có chiều dài phổ biến là 5, 5.5, 6 inch.
   - Lựa chọn kéo theo kích thước bàn tay :   Đặt kéo lên lòng bàn tay với phần xỏ ngón tay nằm ở chân ngón tay cái,
phần mũi kéo nên nằm lọt trong đốt ở đầu ngón tay giữa.
   - Lựa chọn kéo theo công việc: Một số trường hợp cần sử dụng kéo dài tốt hơn là kéo ngắn ( ngón tay khỏi đụng tóc hoặc đụng vào người khách, cắt nhanh hơn) như cắt các đường tóc Bob, cắt trượt, cắt theo lược, cắt trước mặt, cắt trên da...
slideslide
overcombovercomb2
VII. Kéo tỉa
Có nhiều loại kéo tỉa, thường chia làm các loại sau:

1- Kéo tỉa mỏng hay hòa trộn
thinning blending
   - Kéo tỉa có răng nhỏ và khoảng cách giữa các răng hẹp sẽ tỉa mỏng tóc theo cách không tạo kết cấu hay độ phồng nhìn thấy được.
   - Phần tóc được cắt và không cắt hòa trộn với nhau. Chúng thường có từ 30-45 răng tùy thuộc vào chiều dài lưỡi kéo,
     cắt bỏ từ 10-50% tóc. Loại kéo này phù hợp để hòa trộn các vết cắt và giảm độ nặng mà không tạo thêm độ phồng.
   - Nó cũng có thể được dùng để làm mềm và xóa bỏ vết cắt cùn.

2- Kéo tỉa tạo kết cấu tinh tế
subtle-texture
Kéo tỉa có răng hơi lớn hơn và khoảng cách giữa các răng hơi rộng hơn. Chúng thường có từ 14-22 răng, cắt bỏ từ 40-70% tóc.
Răng lớn hơn cắt đứt tóc đáng kể hơn so với kéo tỉa hòa trộn. Phần tóc ngắn sẽ nằm bên dưới và hỗ trợ phần tóc không bị cắt
tạo kết cấu nhìn thấy và độ phồng nhẹ. Loại kéo này có thể được dùng trên hầu hết loại tóc vì kết quả tinh tế nhưng không dễ chú ý

3- Kéo tỉa răng lớn
aggressive
Kéo tỉa có răng và khoảng cách giữa các răng lớn. Chúng thường có từ 5-9 răng, cắt bỏ từ 40-80% tóc.
Phần tóc không bị cắt là các mảng rộng hơn vì thế tạo kết cấu rõ ràng.
4- Kéo tỉa 2 lưỡi răng
 double
Kéo tỉa có răng trên cả hai lưỡi. Nếu được chế tạo tốt nó sẽ tỉa mỏng mà không để lại vết cắt nhìn thấy.
Có thể cắt theo bất kỳ hướng nào.
VIII. Bảo quản kéo
   - Không bao giờ để kéo mở. Luôn khép kéo hoàn toàn để bảo vệ lưỡi kéo.
   - Không để kéo chồng lên nhau
   - Để kéo ở nơi khô ráo
   - Không dùng kéo cắt tóc cắt bất cứ gì khác ngoài tóc.
   - Điều chỉnh độ chặt của lưỡi kéo cho thích hợp. Nếu quá lỏng sẽ mau hỏng kéo.
   - Không gỡ bỏ chốt giảm ồn của kéo, sẽ làm mất cân bằng mũi kéo.
   - Lau chùi tra dầu mỡ mỗi ngày. Không dùng dầu tông đơ cho kéo cắt tóc.
   - Mài kéo ở nơi uy tín, tránh làm hỏng kéo.
sharpening
improper sharpening

Ông tổ nghề tóc

Ông tổ nghề tóc Việt Nam xuất hiện ở thời nào?
 hoc cat toc
Nghề tóc cũng như mọi nghề nghiệp khác, là một lĩnh vực hoạt động mà qua đào tạo, người làm nghề có được những tri thức, những kỷ năng để tạo ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Điều kiện cần và đủ cho nghề tóc ra đời bao gồm những yếu tố sau:
  1. Sự phát triển của kỹ thuật. Trong nghề tóc đó là kỹ thuật luyện kim với các sản phẩm, dụng cụ làm nghề thô sơ nhất như dao. Các sản phẩm tinh xảo và chuyên dụng khác, cũng xuất phát từ kỹ nghệ luyện kim về sau mới xuất hiện.
  2. Nhu cầu xã hội: Nhu cầu này là của số đông, ở nhiều giai tầng khác nhau trong xã hội. Giả thuyết các thái giám cắt tóc cho các ông vua, bà chúa trong các triều đại phong kiến, là ông tổ nghề tóc không xem là có cơ sở vì khi đó công việc này chỉ được thực hiện cho một vài người ở phạm vi hẹp, không phải từ nhu cầu xã hội.
Trên cơ sở các yếu tố này, người viết đặt ra các giả thuyết:
Ông tổ nghề tóc Việt Nam là người đầu tiên cắt tóc cho các bà đầm Pháp?
hoc cat toc
Việc xác định ai là ông tổ nghề tóc VN, hiện đang có nhiều ý kiến tranh cãi. Theo ý kiến của một số nhà tạo mẫu tóc đại diện cho giới làm tóc ở hai miền Nam, Bắc thuộc nhiều thế hệ, mặc dù là tranh cãi chủ yếu xoay quanh vấn đề địa giới, nhưng thống nhất ở một điểm: Ông tổ nghề tóc VN có thể xuất hiện ở thời Pháp thuộc, đầu thế kỷ XX, là người đầu tiên tiếp cận được với những dụng cụ làm tóc chuyên dụng (có nguồn gốc từ Pháp, do các bà đầm Pháp mang sang VN); và được hướng dẫn các kỹ năng làm tóc từ chính những bà đầm này.
Theo đó, nhu cầu làm đẹp cùng váy đầm, tóc ngắn đã lan dần sang các bà vợ của giới quan chức, thơ lại làm việc chon người Pháp. Đây cũng là những khách hàng đầu tiên của người hành nghề làm tóc thời đó tại Việt Nam.
Vậy người Việt ở khu vực nào, Nam Kỳ - với Sài Gòn, Gia Định; Bắc Kỳ - Hà Nội, Hải Phòng; và Trung Kỳ - Hội An, Đà Nẵng, đã tiếp cận sớm nhất với “văn minh” làm tóc, thông qua những người Pháp?
Câu hỏi này đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ. Do đó, các vị tiền bối của nghề tóc thuộc thế hệ nửa đầu thế kỷ XX vẫn không tìm được tiếng nói chung khi muốn xác định ai, ở khu vực nào, là người đầu tiên hành nghề làm tóc ở VN.
Cũng xin nói thêm, phải đến những thập niên 1920-1930, cùng với sự mở rộng của các đô thị, tầng lớp tiểu tư sản người Việt ra đời, văn minh phương Tây đổ bộ vào sinh hoạt hàng ngày như nghệ thuật, thời trang…, thì mới có hình ảnh cô tân thời răng trắng, áo dài, tóc bồng. Khi đó, khái niệm “thời trang” bao gồm nghệ thuật tóc như một hiện tượng xã hội, mới có mặt ở Hà Nội – Sài Gòn.
Nghề tóc có thể ra đời từ phong trao Duy Tân – Đông Kinh Nghĩa Thục?
hoc cat toc
Một trong những tiền đề cho sự ra đời văn hóa thị dân đầu thế kỷ XX, là phong trào Duy Tân năm 1905. Đây là cuộc vận động cải cách xã hội, “chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh” với tâm điểm là “đoạn tuyệt với các lạc hậu cũ”, hô hào đàn ông Vn “bỏ túi bó” và các tóc ngắn”. Vì vậy, dân chúng có lúc đã gọi những người tham gia phong trào là “Giặc Tông đơ” hoặc “Phong trào húi hè!” hoặc “Giặc đồng bào”. Phong trào “Cắt Búi Tó, Cắt tóc ngắn” khởi đi miền Trung, từ các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi ra Huế và được dân chúng khắp nơi hưởng ứng nhiệt liệt. Thanh niên, học sinh từng đoàn, từng nhóm, đứng trên mọi nẻo đường với chiếc kéo, chiếc tông đơ trên tay, ca vang bài “Húi hè!” với lời hát: “Húi hè, húi hè! Bỏ cái ngu này, bỏ cái dại này. Ngày nay ta cúp, ngày mai ta cạo, Húi hè!”.
Một gương mặt sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục, chí sĩ Nguyễn Quyền(1886-1941), còn có bài thơ “Cắt tóc”: “Phen này cắt tóc đi tu/ Tụng kinh Độc Lập ở chùa Duy Tân…” Có thể thấy ở thời này, các dụng cụ của nghề tóc như kéo, tông đơ và nhu cầu xã hội đều đã có. Vậy chúng ta có thể khẳng định nghề tóc ở VN đã có ở thời này.
Ông tổ nghề tóc VN  xuất hiện ở thời Hùng Vương?
hoc cat toc
Nhưng nhìn lại lịch sử văn minh Việt Nam, trước năm 1905, người Việt đã cắt tóc ngắn và trong xã hội đã phát triển nhiều ngành nghề thủ công. Theo Ủy ban Khoa Học Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB KHXH, 1971, tr.48, thì “người Việt thời Hùng Vương – thời dựng nước buổi đầu tiên, ai cũng xăm mình. Ai cũng búi tó hoặc cắt tóc ngắn (cũng có người bỏ xõa tóc hoặc tết đuôi sam)”. Có tóc ngắn, tức là có cắt tóc.
Tuy nhiên, đây là thời kỳ mà thiết chế Nhà nước cũng như tổ chức xã hội còn hết sức sơ khai. Cộng đồng dân cư là các bộ lạc từng bước sáp nhập với nhau. Đời sống kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, cho hề có thương mại – dịch vụ, với tục nhuộm răng, ăn trầu và thờ cúng tổ tiên, ưa chuộng lễ hội, múa hát; trong khi, trình độ kỹ nghệ bấy giờ mới bước qua thời đại đồ đá và tiến tới văn minh đồng thau, với kỹ thuật đúc đồng. Các di chỉ để lại cho thấy mãi sau này mới có các dụng cụ nông nghiệp thô sơ và có nghề luyện sắt thực sự phát triển để cho ra các công cụ dành cho việc cắt tóc như dao, kéo.
Như vậy, người phụ trách cắt tóc cho các cư dân bộ lạc ở thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc không thể là “thợ”, và cắt tóc lúc đó cũng chưa phải là một “nghề”.
Ông tổ nghề tóc VN xuất hiện từ thời Lý?
hoc cat toc
Lịch sử Việt Nam sang trang với mô hình nhà nước phong kiến, nhưng phải đến triều Lý, người Việt mới đạt được những thành tựu rực rỡ trong đời sống kinh tế - văn hóa.
Theo “Lịch sử văn hóa Phật giáo Việt Nam” của Lê Mạnh Phát, trước khi phật giáo truyền vào Trung Quốc, VN đã có một lịch sử phật giáo tương đối phát triển. Sách này cũng trích dẫn các tích về Phật tử đầu tiên là Chử Đồng Tử, thuộc thế kỷ 2-3 trước công nguyên và nhiều chứng cứ khác cho thấy Phật giáo đã du nhập vào nước ta vào thế kỷ thứ 2 BC. Tuy nhiên, từ thành Luy Lâu – trung tâm Phật giáo lớn thời Pháp thuộc, với các câu chuyện về Thạch phật Quang và Phật Mẫu Man Nương, cũng phải trải qua gần 1000 năm, đến triều Lý Thái Tổ (1010-1028), lịch sử Phật giáo mới không còn thuần túy là những huyền thoại hay truyền thuyết.
Trong thời kỳ Lý Thái Tổ, từ quan đến dân đều là Phật tử. Ai cũng dành một khoản thời gian trong cuộc đời để quy y học giáo lý nhà Phật. Lê Quát sống vào cuối đời Trần, nhận xét: “Từ trong kinh thành cho đến ngoài châu phủ, kể cả những nơi thôn cùng ngõ hẻm, không bảo mà người ta cứ theo, không hẹn mà người ta cứ tin, hễ nơi nào có nhà ở là ắt có chùa chiền … Dân chúng quá nửa nước là sư…”. Phật giáo thậm chí hòa làm một thành tín ngưỡng dân gian. Tục bán khoán cho con vào chùa là một ví dụ.
Theo quan niệm của người xưa, trẻ nhở từ khi mới sinh đến tuổi trưởng thành phải nhờ sự nuôi dưỡng, dạy dỗ chăm sóc của cha mẹ. Không những thế còn phải được sự che chở phù hộ, đồ trì của Phật, Thánh. Vì thế người xưa đã có tục bán khoán, tức là làm lễ để cầu xin Phật Thánh nhận trẻ nhỏ làm con (con bán) và giúp đỡ chúng đến tuổi trưởng thành. Cho tới nay tục bán khoán vẫn còn và nhiều người vẫn “bán” con vào chùa cho đến năm 13 tuổi, hết một giáp thì chuộc về (làm lễ “tháo khoán”), hoặc bán cho đến hết đời.
Dưới triều nhà Lý, kỹ thuật cũng để phát triển, đặc biệt là luyện kim, đúc thuyền chiến, súng thần công, các vũ khí bằng sắt. Ngoài ra, dệt, gốm và xây dựng cũng là những kỹ thuật truyền thống tiêu biểu (Nguồn : Tiến trình lịch sử Việt Nam – Nhà xuất bản Giáo dục – PGS.TS Nguyễn Quang Ngọc Tr.100-105).
Như vậy, căn cứ trên việc phát triển kỹ thuật là nhu cầu xã hội, có thể nói vào thời nhà Lý, nghề cắt tóc đã ra đời(?) Và ông tổ nghề cắt tóc, người đầu tiên khởi xướng, đào tạo, truyền dạy nghề cắt tóc, rất có thể là một vị sư, đã bắt đầu từ việc “phát” cho Phật tử quy y, đến việc cắt tóc cho trẻ con trong các lễ bán khoán, với những kiểu tóc đã có từ thời xưa (theo Đào Duy Anh) như ba chỏm, trái đào, tóc cút?
Còn có thêm một luận chứng có thể giúp củng cố giả thuyết này, là: Sau nhà Lý đạo Phật tiếp tục được hoằng dương qua đời Trần – Lê. Học giả Lê Quý Đôn, trong sách “Kiến văn tiểu lục”: “Thời nhà Trần, người trong nước đều cạo đầu, cho nên trong “Sứ Giao Châu thi tập” của Trần Cương Trung nhà Nguyên chua rằng: “con trai đầu trọc, người nào có quan chức thì trùm đầu bằng khăn xanh, nhân dân đều như sư cả”. Tục cắt tóc này đến Hoàng Phúc nhà Minh mới cấm, này dân ở ở Kiên Lao và Trà Lũ huyện Giao Thủy (Nam Định ngày nay) vẫn còn giữ tục ấy. Đàn bà cắt tóc để lại ba tấc tết ở trên đỉnh đầu, buộc lấy đầu sợi tóc rồi búi chặt lại và cài bằng trâm, ở đằng sau gáy không có tóc, cũng không xoa dầu xoa sáp gì cả. Tôi nhận thấy, đấy là phong tục triều nhà Trần, đến bản triều ngày nay thì tục đội khăn xanh, mặc áo thâm, cắt tóc và xăm mình đã thay đổi rồi”.
Như Lê Quý Đôn cho biết, thời nhà Trần nhân dân ta đã gọt tóc hay ít nhất cũng là cắt tóc ngắn. Mà việc cắt tóc như một nhu cầu xã hội thì lại nãy sinh và phổ cập từ thời Lý; tức là, dưới triều Lý, cắt tóc đã chính thức trở thành một nghề, và ông tổ nghề tóc đã xuất hiện cùng các kiểu tóc của người Việt, xem ra, là có lý hơn cả.
Lời kết
Và như vậy thì nghề tóc ở VN đã có từ 1000 năm trước, song hành cùng những thăng trầm của dân tộc Việt.
Tuy nhiên, dù thế nào thì những lập luận trên cũng chỉ là quan điểm cá nhân, với những dẫn chứng lịch sử, văn hóa nói chung và những đặc thù của ngành tóc nói riêng. Vì vậy, người viết rất mong sẽ nhận được phản hồi ý kiến đóng góp về chủ đề này hoặc chỉ ra những sai sót hay dẫn chứng chưa chính xác, chưa đủ sức thuyết phục, nếu có, để có thể hoàn thiện hơn nữa “công cuộc” truy tầm thời điểm xuất hiện nghề tóc ở VN, và từ đó có thể tìm ra lý lịch nhân vật đã khai sinh ra nghề tóc Việt Nam.